Trang

Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

Phải đổi thay hoàn toàn cách quản lý phân bón

Mới đây, vụ việc hơn 800 loại phân bón không đủ điều kiện nhưng vẫn được cán bộ của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm phân bón quốc gia lập khống hồ sơ, cấp giấy chứng nhận chất lượng khiến những bất cập trong quản lý phân bón có dịp “nóng” lên.
Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Hải quan đã trao đổi với TS. Nguyễn Đăng Nghĩa, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Nông nghiệp Nhiệt đới, người có hơn 40 năm kinh nghiệm nghiên cứu về phân bón.
Ông đánh giá như thế nào về vụ việc cán bộ Trung tâm Khảo kiểm nghiệm phân bón quốc gia lập khống hồ sơ cho hơn 800 loại phân bón, trong đó hơn 100 loại không có tên trong danh mục phân bón được phép sản xuất kinh doanh tại Việt Nam vừa qua?
Vụ việc cơ quan điều tra công bố hơn 800 loại phân bón được cấp khống hồ sơ không có gì đặc biệt, thậm chí có thể coi đó chỉ là những “nét chấm phá” trong “bức tranh” quản lý phân bón hiện nay. Thực tế, tình trạng quản lý phân bón nhốn nháo, cái “bắt tay” giữa một số bộ phận trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước với DN không có gì mới, chỉ đơn giản là ở thời điểm hiện tại, vụ việc nào bị “khui” ra thì dư luận có dịp chú ý thôi.
Một số quan điểm cho rằng, vụ việc vừa rồi càng thể hiện rõ công tác quản lý phân bón tồn tại không ít bất cập, là một trong những nguyên nhân mấu chốt khiến cho tình trạng phân bón giả, phân bón kém chất lượng “lộng hành”. Quan điểm của ông như thế nào?
Trên thị trường phân bón hiện nay luôn tồn tại và phát triển thêm những loại phân bón kém chất lượng; phân giả; phân bón nhái; phân bón giả mạo nhãn hiệu và thương hiệu của những loại phân khác. Thậm chí, những loại phân kém chất lượng tới mức chỉ còn 10-30% hàm lượng theo đăng ký và công bố Tiêu chuẩn cơ sở cũng tương đối phổ biến.
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đúng là công tác quản lý vô cùng bất cập. Cụ thể hiện tại, việc quản lý phân bón được giao cho cả hai bộ cùng quản lý là Bộ Công Thương quản lý những loại phân hóa học (phân bón vô cơ) và Bộ NN&PTNT quản lý những loại phân bón hữu cơ, phân bón lá và những loại phân khác.
Mặc dù từ năm 2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định 202/2013/NĐ-CP về quản lý phân bón cũng như hiện đã có hàng loạt văn bản hướng dẫn đi kèm, tuy nhiên mọi thứ vẫn khá chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp và làm khổ cả những người nông dân.
Thực trạng phân bón giả, phân bón kém chất lượng tràn lan là “vấn nạn” nhiều năm nay, chưa có biện pháp giải quyết hữu hiệu. Xin ông phân tích rõ hơn những hậu quả, hệ lụy nếu tình trạng này tiếp diễn lâu dài?
Theo nhiều nguồn thông tin thì mỗi năm, Việt Nam thiệt hại khoảng 2 tỷ USD do phân bón giả và phân kém chất lượng. Tuy nhiên, đây mới chỉ tính thiệt hại do mất lượng tiền không cân xứng với lượng chất dinh dưỡng có trong phân bón.
Ngoài ra phải kể đến những thiệt hại và hậu quả chưa đo đếm chính xác được như khi sử dụng phân giả, kém chất lượng sẽ khiến cho cây trồng không đạt năng suất. Cây yếu ớt, bị sâu bệnh hại tấn công nhiều hơn làm gia tăng lượng kinh phí cho việc phòng và trị sâu bệnh hại. Cuối cùng phần chi phí thì tăng thêm mà thu nhập thì thấp đi khiến cho lợi nhuận của vụ mùa giảm sút.
Bên cạnh đó, để làm phân giả và phân kém chất chất lượng thì phải có những hóa chất và nguyên liệu không phải là chất dinh dưỡng (không phải là thức ăn cho cây), do vậy sẽ đưa vào đất những chất độc hại làm thoái hóa đất (làm suy giảm sức khỏe của đất), ảnh hưởng tới chất lượng nông sản và kéo theo mất an toàn về vệ sinh thực phẩm, đe dọa trực tiếp tới sức khỏe người tiêu dùng (cộng đồng người Việt Nam). Nếu đó là loại nông sản XK, thậm chí còn gây ảnh hưởng tới uy tín của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Ở một góc độ khác, với hiện tượng rửa trôi và xói mòn do cường độ mưa sẽ kéo những chất độc từ phân bón giả ra ngoài kênh mương hoặc trực tiếp đi xuống tầng nước ngầm, làm ảnh hưởng tới động vật thủy sinh, tôm cá và sức khỏe con người(do sử dụng nước giếng).
Như ông đã phân tích, sự bất cập, chồng chéo là nguyên nhân chính khiến việc quản lý phân bón kém hiệu quả, tạo điều kiện cho phân bón giả, phân bón kém chất lượng có “cửa sống”. Vậy phải chăng để đổi thay cục diện, phải có một cách quản lý hoàn toàn mới, thưa ông?
Tôi cho rằng, điều quan trọng là cần nhanh chóng phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của hai bộ đang tham gia quản lý ngành hàng phân bón.
Bộ Công Thương chịu trách nhiệm cấp phép cho việc sản xuất phân bón khi đạt được các điều kiện cần và đủ (kiểm tra giám sát các điều kiện cần và đủ cho một nhà máy sản xuất phân bón như: Quy mô nhà xưởng, hệ thống trang thiết bị máy móc, qui trình công nghệ, yếu tố nhân sự và các điều kiện về an toàn, môi trường…). Không tham gia quản lý cấp phép tên phân, thành phần, chất lượng và hướng dẫn sử dụng phân bón nữa mà thay vào đó sẽ chịu trách nhiệm trong lĩnh vực XNK nguyên vật liệu và các chủng loại phân bón cho sản xuất nông nghiệp. Đối với Bộ NN&PTNT, nhiệm vụ phụ trách sẽ là soạn thảo và chuẩn hóa 100 loại phân bón phục vụ cho các qui trình kỹ thuật bón phân cho các loại cây trồng chính; soạn thảo quy trình hướng dẫn sử dụng những loại phân bón trên.
Trên thực tế hiện nay, Việt Nam có khoảng 10 loại cây trồng chủ lực, mỗi loại chỉ cần 4-6 loại phân bón chuyên dùng cho suốt quá trình sinh trưởng (một mùa vụ). Như vậy tất cả chỉ cần khoảng 60 loại phân bón chuyên dùng, còn mở rộng tính thêm 40 loại khác đạt tổng thể 100 loại là khá thoải mái.
Các DN sản xuất, kinh doanh phân bón chỉ được phép hoạt động sản xuất với 100 loại phân bón đã được chuẩn hóa. DN sẽ cạnh tranh nhau một cách lành mạnh bằng chất lượng, mẫu mã bao bì, chính sách thương mại và sự chăm sóc khách hàng, đồng thời cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất, kho bãi…
Làm được như vậy thì công tác quản lý sẽ dễ hơn, hạn chế tối đa những tiêu cực trong quản lý, khuyến khích tối đa những tích cực trong cạnh tranh để sản xuất và kinh doanh phân bón. Cuối cùng, đối tượng hưởng lợi nhiều nhất sẽ là người nông dân, sau đó là người tiêu dùng và thương hiệu cho nông sản Việt Nam.
Xin cảm ơn ông!
Hiện nay, Bộ NN&PTNT đang quản lý xấp xỉ 5.300 chủng loại phân bón đã có trong danh mục chính thức. Bộ Công Thương đã cấp xong giấy hợp chuẩn, hợp quy cho các DN với số lượng xấp xỉ 1.000 loại. Những loại phân bón truyền thống và nằm ngoài danh mục ước tính cũng xấp xỉ 1.000 loại.
Như vậy, thị trường phân bón tại Việt Nam đang tồn tại khoảng 7.000 chủng loại phân bón bao gồm: Phân hóa học, phân hữu cơ, phân hữu cơ-khoáng, phân vi lượng, phân bón dưới rễ và phân bón lá.
Trong khi đó, các quốc gia có tỷ trọng nông nghiệp khá lớn và những quốc gia phát triển cũng chỉ tồn tại và sử dụng khoảng 20-30 loại phân bón. Nước “láng giềng” Thái Lan cũng chỉ có khoảng hơn 100 chủng loại phân bón cho sản xuất nông nghiệp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét